Người Thái

Người Thái cư trú chủ yếu tại tây bắc ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và một số ít ở Tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk.

Dân số

1.820.950 người (Theo số liệu Điều tra 01/4/ 2019).

Lịch sử

Người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, trên 1200 năm, là hậu duệ những người Thái đã di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.

Hoạt động sản xuất

Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thuỷ lợi. Họ đúc kết một thành ngữ "mương, phai, lái, lịn" (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt máng).

Trước đây người Thái cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải.

Ăn

Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống.

Trên mâm cơm không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành... có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng... gọi chung là chéo.

Hễ có thịt trâu bò thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa).

Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc...

Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, ít dùng các món ngọt. Hay uống rượu cần.

Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.

mặc

Phụ nữ Thái mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu. Váy vải màu thâm. Thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây; đeo dây xà tích bạc ở bên hông.

Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng.

Phụ nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ.

Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái; cài khuy tết bằng dây vải.

Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.

Người Thái ở nhà sàn. Nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút.

Phương tiện vận chuyển

Gánh là phổ biến. Ngoài ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán.

Ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.

Quan hệ xã hội

Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu.

  • i Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời).

  • Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ).

  • Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể).

cưới xin

Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản.

  1. Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Ðen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm.

  2. Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha.

sinh đẻ

Sau khi sinh, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng, sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng. Sau đó ống lam bó đem treo trên cành cây.

Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên.

ma chay

Lễ tang có 2 bước cơ bản.

  1. Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiếu (Thái Ðen).

  2. Xống: gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.

nhà mới

Dẫn chủ nhân lên nhận nhà, Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi.

thờ cúng

Người Thái cúng tổ tiên vào tháng 7, 8 âm lịch.

Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và linh hồn người làm trụ cột.

lễ tết

Người Thái Trắng ăn tết theo âm lịch.

lịch

Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh với âm lịch 6 tháng.

học

Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu.

Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học.

văn nghệ

Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.

chơi

Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xoè, chơi quay và quả mák lẹ.